Dạng tồn tại Olivin

Cát lục là tinh thể olivin, bị bào mòn từ đá núi lửaPeridotit xenolith trong bazan--olivin là các tinh thể màu lục. Địa điểm: Vùng dành riêng cho người da đỏ San Carlos, quận Gila, Arizona, Hoa Kỳ.

Olivin được đặt tên xuất phát từ màu lục đặc trưng (sự có mặt của niken) của nó, nó có thể chuyển sang màu đỏ khi sắt bị oxy hóa. Olivin có mặt gãy vỏ sò và đôi khi dễ vỡ. Độ cứng của olivin theo thang độ cứng Mohs là 6,5–7, tỷ trọng riêng khoảng 3,27–3,37 và có ánh từ thủy tinh trong suốt đến mờ.

Olivin trong suốt đôi khi được sử dụng làm đá quý. Olivin còn được gọi là crysolit, theo tiếng Hy Lạp dùng để chỉ vàng và đá. Olivin hạt mịn có thể được tìm thấy trong đá lớp phủ trên đảo Zabargad, biển Đỏ.

Olivin/peridot có mặt trong cả đá xâm nhập maficsiêu mafic, và ở dạng khoáng vật nguyên sinh trong các đá biến chất. Olivin giàu Mg kết tinh từ magma giàu magie và ít silica. Các đá kết tinh từ mácma mafic như gabbrobazan. Các đá siêu mafic như peridotitdunit là phần kết tinh trước các đá mafic, và chúng thường chứa nhiều olivin. Olivin và các biến thể khác của nó chiếm hơn 50% quyển manti trên của Trái Đất, và olivin là một trong những khoáng vật phổ biến trên Trái Đất nếu tính theo khối lượng. Quá trình biến chất từ dolomit không tinh khiết hoặc các đá trầm tích chứa nhiều magie và ít silica cũng tạo ra olivin giàu Mg hay forsterit.

Olivin giàu sắt ít phổ biến hơn, và có mặt trong các đá mácma xâm nhập với lượng nhỏ. Olivin này rất hiếm gặp trong đá granitryolit. Olivin rất giàu Fe có thể tồn tại cùng với thạch anhtridymit, nhưng olivin giàu Mg không thể có mặt cùng với các khoáng vật silica vì chúng sẽ phản ứng với nhau để tạo ra orthopyroxen, (Mg,Fe)2Si2O6.

Olivin giàu magie bền vững với các áp suất tương đương với độ sâu khoảng 410 km trong lòng đất. Do nó được coi là khoáng vật phong phú nhất tại các độ sâu nhỏ hơn của quyển manti, nên các tính chất của olivin cũng ảnh hưởng đến lưu biến học trong phần này của Trái Đất và vì thế là tới các dòng vật chất rắn tạo ra các mảng kiến tạo. Các nghiên cứu cho thấy olivin ở áp suất cao (khoảng 12 GPa, tương ứng với độ sâu khoảng 360 km hoặc lớn hơn) có thể chứa ít nhất khoảng 8.900 ppm (khối lượng) nước. Lượng nước này làm giảm đáng kể sự cản trở của olivin đối với dòng chất rắn; hơn thế nữa, do lượng olivin là quá nhiều, nên lượng nước hòa tan trong olivin có thể lớn hơn cả nước có trong đại dương.[6]

Olivin giàu magie cũng được tìm thấy trong thiên thạch, trên Sao Hỏa, và Mặt Trăng của Trái Đất. Các thiên thạch này gồm chondrit, được thu thập từ các mảnh vỡ trong hệ Mặt Trời cổ; và pallasit là hỗn hợp của sắt-niken và olivin. Tín hiệu quang phổ của olivin cũng được phát hiện trong đám mây bụi xung quanh các ngôi sao trẻ. Đuôi các sao chổi (được hình thành từ đá mây bụi xung quanh Mặt Trời trẻ) thường cũng có tín hiệu quang phổ của olivin. Olivin cũng có mặt trong các mẫu của một sao chổi được thu thập gần đây bởi phi thuyền Stardust.[7]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Olivin http://www.farlang.com/art/gemstone-meteorites http://www.farlang.com/gemstones/peridot http://www.springerlink.com/index/78528604337V3773... http://webmineral.com/data/Olivine.shtml http://www.psrd.hawaii.edu/Nov03/olivine.html http://www.und.nodak.edu/instruct/mineral/320petro... http://www.netl.doe.gov/publications/proceedings/0... http://stardust.jpl.nasa.gov/news/status/060313.ht... http://www.mindat.org/min-2983.html http://www.rockcollector.co.uk/infocus/olivine.asp